Tính đến thời điểm cuối năm 2023, tổng dư nợ tại 28 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính là gần 10.06 triệu tỷ đồng, tăng gần 18% so với thời điểm hồi đầu năm. Đáng chú ý, tất cả các ngân hàng đều ghi nhận tăng trưởng tín dụng dương. Trong đó, tăng trưởng tín dụng mạnh nhất được ghi nhận tại ngân hàng MB (tăng 33%), kế đó là HDBank (tăng 30%), VPBank (tăng 29%) và Vietbank (tăng 27%).
Hình minh họa. |
Trong khi đó, tổng nợ xấu tại 28 ngân hàng tại thời điểm cuối năm 2023 ghi nhận ở mức 194,994 tỷ đồng, tăng gần 41% so với đầu năm. Ngoại trừ VBB có chất lượng nợ vay được cải thiện, các ngân hàng còn lại đều có nợ xấu phình to.
Về cơ cấu nợ xấu, nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4) tăng mạnh nhất với 78%, kế đó là nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) tăng gần 30% và nợ dưới chuẩn (nợ nhóm 3) tăng gần 27%.
Tính đến 31/12/2023, có đến 22/28 ngân hàng tăng tỷ lệ nợ xấu/dư nợ vay so với đầu năm. Tuy nhiên, chỉ có 5 ngân hàng có tỷ lệ này vượt ngưỡng cho phép (3%), trong khi tại thời điểm cuối quý 3 có đến 9 ngân hàng. Mặc dù vậy, có ngân hàng đã nâng tỷ lệ nợ xấu lên gần 30%.
6 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cải thiện là VPBank, VBBank, PGBank, LPBank và VietinBank, tuy nhiên tỷ lệ giảm rất thấp.
Theo Công ty Chứng khoán An Bình (ABS), trong năm 2023, chi phí dự phòng đã cản bước đối với lợi nhuận của ngành ngân hàng.
Cụ thể, nguồn thu chính và nguồn thu ngoài lãi đã có nhiều sự phân hóa, khi có đến 12/28 ngân hàng giảm lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh và 1 ngân hàng báo lỗ.
Thêm vào đó, các nhà băng tăng cường trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, nâng tổng chi phí dự phòng của 28 ngân hàng lên 123.980 tỷ đồng, tăng 3% so với năm trước. Trong đó, có 18 ngân hàng gia tăng trích lập dự phòng, làm “bào mòn” lợi nhuận. Kết quả, có 11 ngân hàng sụt giảm lợi nhuận trước thuế trong năm 2023 và 1 ngân hàng báo lỗ.
Nợ xấu tăng cao là nguyên nhân cốt lõi khiến các nhà băng phải tăng mạnh trích lập dự phòng, để giải quyết vấn đề nợ xấu, có 2 vấn đề cần phải quan tâm bao gồm vực dậy nền kinh tế và giải quyết thị trường bất động sản.
Thứ nhất, khi nền kinh tế hồi phục, các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả trở lại, có dòng tiền để trả nợ, tức là giải quyết được dòng tiền. Tuy nhiên, các giải pháp này cần phải được thực hiện liên tục và mạnh mẽ. Khi kinh tế hồi phục, doanh nghiệp hồi phục, nợ xấu sẽ giảm.
Thứ hai, dù muốn hay không vẫn phải giải cứu thị trường bất động sản, vì đa số nguồn vốn đang ngụ tại thị trường này và đa số nợ xấu của hệ thống ngân hàng cũng là bất động sản, 80-90% tài sản thế chấp ngân hàng là bất động sản. Nếu muốn xử lý nợ xấu nhanh thì phải vực dậy thị trường bất động sản, còn nếu thị trường bất động sản vẫn đóng băng, ngân hàng cũng không thể xử lý được nợ xấu.
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh - Chuyên gia kinh tế đánh giá, nợ xấu năm 2023 đã tăng rất đáng kể, dù con số này chưa thể hiện được thực tế nợ xấu ngân hàng đang nắm giữ.
Việc Thông tư 02/2023/TT-NHNN cho phép giãn, hoãn nợ đến 30/06/2024 góp phần kìm hãm đà tăng của nợ xấu. Do đó, khi thời hạn Thông tư 02 hết hiệu lực, các khoản nợ tái cơ cấu sẽ về đúng phân loại, làm cho nợ xấu tăng cao, bộ đệm dự phòng của các ngân hàng thu hẹp, khiến cho dư địa xử lý nợ xấu trong năm nay không còn nhiều.
Thêm vào đó, khi hiệu lực của Thông tư 02 hết hạn (đang được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cân nhắc gia hạn), áp lực trích lập cho các khoản nợ tái cơ cấu hoặc các khoản nợ xấu không được tái cơ cấu sẽ gia tăng, khiến lợi nhuận ngân hàng giảm đi đáng kể.
Về nguyên tắc tính toán thì với Thông tư 02, tỷ lệ nợ xấu sẽ không cao như dự kiến ban đầu còn bao nợ xấu lại tăng lên do tổng dự phòng (tử số) bao gồm các khoản vay đã cơ cấu trong khi mẫu số lại không bao gồm. Thu từ nợ đã xử lý của các ngân hàng chưa khả quan so với cùng kỳ, cho thấy dù đã có nỗ lực, các ngân hàng vẫn cần chính sách hỗ trợ để xử lý nợ xấu.
Trong khi đó, báo cáo của SSI cho rằng, tỷ lệ nợ xấu có thể tăng trở lại trong nửa đầu năm 2024, khi tăng trưởng tín dụng chậm lại và các yếu tố vĩ mô chưa có dấu hiệu cải thiện rõ rệt.
Dù dự báo tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2024 sẽ không có nhiều thay đổi so với 2023, do cuối năm các ngân hàng dự kiến sẽ đẩy mạnh xóa nợ xấu và nền kinh tế phục hồi mạnh hơn. Tuy nhiên, các khoản nợ có vấn đề (nợ nhóm 2, các khoản vay tái cơ cấu, trái phiếu doanh nghiệp quá hạn và các khoản vay cũ) vẫn tiếp tục cần được giám sát chặt chẽ.
Bên cạnh đó, nếu dự thảo sửa đổi Thông tư 16/2021/TT-NHNN nới lỏng việc hạn chế đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của ngân hàng được thông qua, không loại trừ khả năng một phần rủi ro tín dụng sẽ quay trở lại đối với các ngân hàng tích cực mua lại trái phiếu doanh nghiệp.
Ngày 15/01/2024, Thống đốc NHNN cũng đã ban hành Chỉ thị 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện nhiệm vụ trọng tâm ngành ngân hàng trong năm 2024. Trong đó, có nhiệm vụ triển khai quyết liệt, hiệu quả Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”, góp phần phát triển hệ thống các TCTD hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật và tiệm cận, đáp ứng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế; tập trung thực hiện có hiệu quả phương án xử lý các TCTD yếu kém, triển khai cơ cấu lại các ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt theo chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền; chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh công tác xử lý, thu hồi nợ xấu; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế nợ xấu mới phát sinh.
Thu về hàng tỷ USD lợi nhuận năm 2023, vì sao các ngân hàng vẫn thận trọng đặt chỉ tiêu lợi nhuận 2024? Theo giới chuyên gia, áp lực nợ xấu tăng cao đang khiến các nhà băng dè dặt trong việc đặt mục tiêu lợi nhuận năm ... |
Vietcombank thông báo rời lịch tổ chức ĐHĐCĐ, đâu là nguyên nhân? Ngoài thay đổi về thời gian, Vietcombank cũng phê duyệt bổ sung nội dung về "Tờ trình về Phương án cơ cấu lại gắn với ... |
Vân Anh
Ngân hàng | 1 tháng | 6 tháng | 12 tháng |
---|