Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có đóng góp rất lớn của hệ thống Thương vụ

(Banker.vn) Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào thị trường toàn cầu trong đó có đóng góp rất lớn từ hệ thống các cơ quan Thương vụ của Bộ Công Thương.
“Sứ giả Công Thương” trong hội nhập kinh tế quốc tế Cây tre Việt Nam nhìn từ góc độ hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa. Ngay từ những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã hướng đến xây dựng nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng cho đến nay, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng phát triển kinh tế. Những thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tiêu biểu là:

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có đóng góp rất lớn của hệ thống Thương vụ
Ông Trịnh Minh Anh - Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế

Thứ nhất là Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật

Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, là thành viên tích cực của gần 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Việt Nam là một trong 40 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới, top 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại; top 15 nền kinh tế hàng đầu về thu hút đầu tư nước ngoài, top 46 nước đứng đầu thế giới về Chỉ số đổi mới sáng tạo. Thời gian qua, Việt Nam duy trì được tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam bình quân 3 năm (2021 - 2023) đạt 5,2%/năm (là mức cao của khu vực và thế giới); 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tụctăngtrưởng 6,42%, cao hơn nhiềucùng kỳ năm trước và dự báo tiếp tục xu hướng tích cực hơn trong thời gian tới.

Kết quả đó có được là nhờ thời gian qua, hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu, đặc biệt thông qua việc ký kết và tham gia các Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Chúng ta hiện đã ký kết 16 FTA và đang đàm phán 3 FTA, tổng cộng đã và đang tham gia 19 FTA, qua đó, chúng ta có có trên 60 đối tác FTA, phủ rộng khắp các châu lục với tổng GDP chiếm gần 90% GDP toàn cầu, nâng tầm vị thế của VN trở thành một mắt xích quan trọng trong mạng lưới quan hệ đối tác của các QG trên thế giới. Nhờ đó mà thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam đã được mở rộng trên 2 góc độ:

Thứ nhất, thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam được mở rộng theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế. Thị trường được mở rộng nhanh, cơ cấu thị trường đã có sự chuyển dịch tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế. Hiện hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nếu như trước đây châu Á vẫn là khu vực thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam thì tỷ trọng của khu vực châu Mỹ tăng mạnh trong giai đoạn 2013-2022 (tăng từ 21,2% năm 2013 tới 34,1% năm 2022 so với mức trung bình 21% giai đoạn 2013-2015.)

Xét về quy mô thị trường xuất khẩu đã có sự tăng trưởng tích cực, nếu như năm 2013, Việt Nam chỉ có 24 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, trong đó có 3 thị trường trên 10 tỷ USD, thì 10 năm sau năm 2022, có 33 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, trong đó, 6 thị trường đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD, 16 thị trường trên 5 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng tại các thị trường yêu cầu cao về chất lượng như Hoa Kỳ, Canada, Australia, Nhật Bản, EU đã cho thấy xuất khẩu không chỉ mở rộng về chiều rộng mà đã có những cải thiện chiều sâu khi chất lượng hàng hóa đã được người tiêu dùng ở các thị trường được coi là “khó tính” chấp nhận.

Thứ hai, đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa: Năm 2012, Việt Nam xuất khẩu 114,6 tỷ USD và nhập khẩu 114,3 tỷ USD và là năm đầu tiên Việt Nam đạt thặng dư trong lĩnh vực xuất khẩu. Đến năm 2014, thặng dư thương mại là 2,37 tỷ USD. Trong giai đoạn 5 năm (2011 - 2015), tổng mức lưu chuyển ngoại thương hàng hóa, dịch vụ đạt 1.439,5 tỷ USD, gấp gần 2,1 lần giai đoạn 2006 - 2010.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có đóng góp rất lớn của hệ thống Thương vụ
Ông Trịnh Minh Anh phát biểu tại Hội nghị Tham tán Thương mại khu vực châu Âu diễn ra tại Italia hôm 18 và 19/7 vừa qua

Nhìn chung, trong giai đoạn 2015 - 2019, hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước luôn đạt mức tăng trưởng cao qua từng năm. Năm 2020 ghi dấu ấn đặc biệt đối với thương mại toàn cầu với sự bùng phát và diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19. Các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để ngăn chặn dịch bệnh COVID-19, khiến thương mại toàn cầu đình trệ, chuỗi cung ứng đứt gãy, dẫn tới làn sóng phá sản nhiều doanh nghiệp trên toàn cầu.

Vượt qua khó khăn, năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,54 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020. Mặc dù tiếp tục bị ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19 ở trong nước và tình hình kinh tế thế giới nhiều biến động, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa năm 2022 đạt mức kỷ lục 732,5 tỷ USD, trong đó xuất siêu 11,2 tỷ USD. Năm 2023 cán cân thương mại của Việt Nam ghi nhận xuất siêu năm thứ 8 liên tiếp với mức thặng dư gần 30 tỷ USD, tăng gần gấp 3 lần năm 2022 với tổng kim ngạch 683 tỷ USD.

Củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế: Vị thế của Việt Nam trên thế giới đã được củng cố toàn diện trong giai đoạn vừa qua. Với việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, vị thế của đất nước tiếp tục được cải thiện đáng kể. Có thể khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trở thành một trong 20 nền thương mại lớn nhất thế giới: WTO ghi nhận việc Việt Nam trở thành một nền kinh tế có độ mở cao, tới 200% GDP và cải thiện cán cân thương mại hàng hóa, chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu trong giai đoạn 2016 đến nay. Báo cáo rà soát thống kê thương mại thế giới năm 2020 của WTO ghi nhận trong số 50 quốc gia có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới, Việt Nam có mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí thứ 39 vào năm 2009 lên vị trí thứ 23 vào năm 2019 và lọt vào tốp 20 năm 2021.. Năm 2023, cán cân thương mại xuất siêu là năm thứ 8 liên tiếp cán cân thương mại hàng hóa ở mức thặng dự mặc dù gặp nhiều khó khăn sau ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh.

Có thể thấy, trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế, thị trường toàn cầu, là quốc gia nằm trong nhóm 30 nước, vùng lãnh thổ có giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa lớn nhất trên phạm vi toàn cầu. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”.

Tuy nhiên, trước bối cảnh phát triển mới, nước ta cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp về hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời nắm bắt xu thế phát triển của thế giới để tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước các trong giai đoạn tiếp theo.

Thứ hai là, quan hệ hợp tác kinh tế thương mại của Việt Nam với khu vực châu Âu ngày càng được tăng cường với trọng tâm là FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các quốc gia đều có sự hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực trong đó đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, thương mại nhằm tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu, tìm vốn đầu tư, khoa học công nghệ và học hỏi các kinh nghiệm từ các nước phát triển. EU hiện nay là một trong những đối tác đầu tư và thương mại hàng đầu của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều ngày càng tăng.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có đóng góp rất lớn của hệ thống Thương vụ
EU đã mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn góp phần thúc đẩy sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, giúp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đa dạng hóa quan hệ kinh tế với các đối tác khác (Ảnh minh họa)

Việt Nam và Liên minh châu Âu đã ký kết Hiệp định khung về hợp tác (FCA) vào năm 1995 là văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên đặt nền móng cho quan hệ Việt Nam - EU phát triển ngày càng mạnh mẽ. Trong gần 30 năm qua, quan hệ Việt Nam - EU đã có những bước tiến vượt bậc.

Nếu giai đoạn 2000 - 2010, hợp tác giữa Việt Nam và EU bắt đầu đi vào chiều sâu, việc PCA chính thức được ký kết vào ngày 27/6/2012 đã tạo nên một bước đột phá mới trong quan hệ giữa hai bên. PCA đã trở thành nền tảng pháp lý thay thế FCA, thể hiện cam kết của EU trong việc tiến tới mối quan hệ hiện đại, trên diện rộng và cùng có lợi với Việt Nam. PCA mở rộng phạm vi hợp tác Việt Nam - EU vượt qua lĩnh vực thương mại và hợp tác kinh tế, sang cả những lĩnh vực khác, như môi trường, năng lượng, công nghệ, quản trị công hiệu quả, du lịch, văn hóa, di cư, an ninh, chống tham nhũng và tội phạm có tổ chức.

Ý tưởng về ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa EU và Việt Nam đã được đề xuất từ tháng 6/2010. Chỉ 4 tháng sau, hai bên đã nhất trí khởi động đàm phán FTA Việt Nam - EU (EVFTA). Tiến trình đàm phán EVFTA đã bắt đầu từ tháng 6/2012 và kết thúc vào tháng 12/2015. Tháng 6/2018, hai bên đã nhất trí tách phần đầu tư ra thành Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA). Ngày 30/6/2018, EU và Việt Nam đã chính thức ký kết EVFTA và IPA. Hai năm sau, EVFTA được Hội đồng châu Âu thông qua vào ngày 30-3-2020 và phía Việt Nam phê chuẩn vào ngày 8/6/2020. Ngày 1/8/2020, EVFTA chính thức có hiệu lực.

Vào năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam thông qua Đề án Tổng thể để phát triển quan hệ với EU. Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên công bố kế hoạch về quan hệ với EU và EU cũng là đối tác đầu tiên mà Việt Nam có một chiến lược tổng thể. Như vậy, có thể khẳng định, EU là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu do có vị trí và vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của Việt Nam.

Về phát triển kinh tế, EU luôn là một trong ba đối tác thương mại hàng đầu (sau Trung Quốc và Mỹ) và là một trong hai thị trường xuất khẩu quan trọng nhất (sau Mỹ) của Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU tập trung vào các sản phẩm sử dụng nhiều lao động, bao gồm lắp ráp các mặt hàng điện tử, điện thoại, giày dép, hàng dệt may, cà phê, hải sản và đồ nội thất... Các mặt hàng chính của EU xuất khẩu sang Việt Nam là các sản phẩm công nghệ cao, như máy móc, sản phẩm cơ khí, thiết bị điện, dược phẩm… Như vậy, Việt Nam liên tục là phía xuất siêu sang EU với khối lượng ngày càng tăng. Điều này đã giúp Việt Nam cân bằng được thâm hụt thương mại lớn với các đối tác Đông Bắc Á, như Trung Quốc, Hàn Quốc trong thời gian qua.

Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, EU là một trong năm nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam (cùng với Hàn Quốc, Nhật Bản, Xin-ga-po và vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc). Xu thế đầu tư của EU chủ yếu vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, gần đây có xu hướng phát triển tập trung hơn vào các ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ...).

Các nhà đầu tư châu Âu có ưu thế về công nghệ, vì vậy đã góp phần tích cực trong việc chuyển giao công nghệ, tạo ra một số ngành, nghề mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao, tạo thêm nhiều việc làm mới... Một số tập đoàn lớn của EU đang hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam, như BP (Anh), Shell Group (Hà Lan), Total Elf Fina (Pháp, Bỉ), Daimler Chrysler (Đức), Siemen, Alcatel Comvik (Thụy Điển)…

Như vậy, EU đã mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn góp phần thúc đẩy sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, giúp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đa dạng hóa quan hệ kinh tế với các đối tác khác.

Về hỗ trợ hoàn thiện thể chế và hội nhập quốc tế, các dự án của EU hỗ trợ Việt Nam hoàn thiện thể chế, từ đó có thể hội nhập quốc tế, đã có từ rất sớm. Ngay trước cả năm 1995, EU đã tiến hành Chương trình Hỗ trợ của châu Âu dành cho quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam (gọi tắt là EuroTAPViet), chương trình này kéo dài từ năm 1994 - 1999 và là chương trình hỗ trợ kỹ thuật lớn nhất mà EU đã thực hiện ở châu Á. EuroTAPViet đã giúp Việt Nam đạt được những tiêu chuẩn cần thiết để hội nhập quốc tế, từ đó xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quản lý kế toán và kiểm toán thống nhất cho cả nước, góp phần hiện đại hóa các hệ thống quản lý tài chính của Việt Nam, hỗ trợ kỹ thuật, trang bị cho các cơ quan, tổ chức của Việt Nam những năng lực cần thiết để quản lý một nền kinh tế thị trường và tận dụng được những mối quan hệ mới từ bên ngoài.

Trong rất nhiều các dự án hỗ trợ hoàn thiện thể chế và hội nhập quốc tế của EU cho Việt Nam, không thể không đề cập đến vai trò quan trọng của dự án dài hạn nhất của EU là Chương trình Hỗ trợ chính sách thương mại đa phương (MUTRAP) kéo dài từ năm 1998 đến năm 2017. Chương trình này đã hỗ trợ kỹ thuật cho cán bộ các bộ, ngành, các doanh nghiệp, trường đại học, chính quyền địa phương. Có thể nói, EU đã đồng hành cùng Việt Nam trong suốt thời kỳ bắt đầu hội nhập đầy khó khăn với những hoạt động hỗ trợ quan trọng. Thành tựu hội nhập quốc tế mà Việt Nam đạt được có đóng góp không nhỏ từ EU. Từ một quốc gia bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 với tư cách là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tham gia đàm phán FTA với Trung Quốc (năm 2004), Hàn Quốc (năm 2005), Nhật Bản (năm 2008), Australia - New Zealand (năm 2009), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) (năm 2018) và EVFTA (năm 2020)...

Gần 30 năm qua, quan hệ Việt Nam - EU đã phát triển không chỉ về bề rộng mà còn cả chiều sâu mà Hiệp định IPA và EVFTA là minh chứng rõ nét. Việc ký kết thành công hiệp định này đánh dấu một mốc mới trên chặng đường hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và EU, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp và khó đoán định. Có thể coi đây là một thông điệp tích cực về quyết tâm phát triển mối quan hệ hai bên của cả Việt Nam và EU.Quan hệ Việt Nam - EU trong thời gian tới có xu hướng thuận lợi nhiều hơn thách thức do cả hai bên đều có nhu cầu thúc đẩy quan hệ song phương này.

Việt Nam là đối tác hàng đầu của EU ở khu vực Đông Nam Á. Việc phát triển quan hệ với một đối tác đặc biệt với khối EU không chỉ phù hợp với chính sách đối ngoại đa phương của Việt Nam mà còn giúp Việt Nam cân bằng quan hệ với các nước lớn. Mối quan hệ này còn được củng cố bằng các mối quan hệ song phương, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện giữa Việt Nam và các nước thành viên chủ chốt của EU, như Đức, Pháp, Italia,... tạo nên sự đan xen lợi ích và chiến lược cho tất cả các bên.

Với EVFTA và IPA, quan hệ thương mại đã trở thành trụ cột trong phát triển quan hệ giữa hai bên. Việc triển khai hai hiệp định này sẽ mở rộng thị trường cho các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (dệt may, giầy dép, hàng nông sản...), cũng là cơ hội tiếp cận với các thiết bị, công nghệ, kỹ thuật cao của EU, đồng thời có điều kiện để hoàn thiện hơn nữa thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng minh bạch, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, cũng có những khó khăn nhất định trong quan hệ kinh tế. Ví dụ như, sự khắt khe của thị trường EU với nhiều tiêu chuẩn mới, đòi hỏi cao hơn về kỹ thuật, môi trường, vệ sinh an toàn, bảo vệ quyền người lao động... cùng với chính sách bảo hộ nông nghiệp... Hay việc EU tập trung vực dậy thị trường nội khối, thắt chặt chi tiêu và hạn chế đầu tư ra bên ngoài... sẽ có những tác động nhất định đến việc thu hút dòng đầu tư chất lượng cao của Việt Nam. Hơn nữa, do Việt Nam đã vượt lên nằm trong nhóm nước có thu nhập trung bình nên chính sách của EU sẽ hướng đến các lĩnh vực phát triển khác, như biến đổi khí hậu, phát triển năng lượng bền vững, tăng cường thể chế...

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có đóng góp rất lớn của hệ thống Thương vụ
Việc thực thi EVFTA đã đánh dấu bước quan trọng trong quá trình 30 năm hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu, mở ra một giai đoạn mới cho mối quan hệ đối tác toàn diện đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn (Ảnh minh họa)

Việc thực thi EVFTA đã đánh dấu bước quan trọng trong quá trình 30 năm hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu, mở ra một giai đoạn mới cho mối quan hệ đối tác toàn diện đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn. Năm 2023, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên EU đạt 72,3 tỷ USD, giảm 5,3% so với năm 2022, thặng dư thương mại đạt 34,3 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước EU năm 2022 đạt 46,8 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2021. Kim ngạch nhập khẩu từ các nước EVFTA đạt 15,4 tỷ USD, giảm 8,6% so với năm 2021. Nhiều mặt hàng quan trọng của Việt Nam xuất khẩu sang EU tiếp tục tăng, như thủy sản tăng 29,5%, rau quả tăng 34,2%, giày dép tăng 49,7%, dệt may tăng 43,4%, gỗ và sản phẩm gỗ tăng 85,2%... Các thị trường xuất khẩu chính là Hà Lan, Đức, Italia, Bi, Pháp…

Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU có tính bổ sung cao, ít có sự cạnh tranh lẫn nhau. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng những mặt hàng chất lượng cao, thực phẩm sạch, giảm tỷ trọng hàng chất lượng trung bình và các sản phẩm thô chưa qua chế biến.

Qua 4 năm thực thi EVFTA đã cho thấy những tác động của hiệp định này đến sự phát triển quan hệ thương mại Việt Nam-EU, như việc tạo lập thương mại, hàng hóa nhập khẩu từ EU sẽ thay thế các hàng hóa sản xuất trong nước có chi phí cao hơn, và chuyển hướng thương mại, hàng hóa nhập khẩu từ EU thay thế hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác do những ưu đãi về thuế và các điều khoản khác làm tăng lợi thế so sánh của hàng hóa nhập khẩu từ EU trong quá trình thực thi EVFTA.

Việc giảm thuế suất từ phía EU làm tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam có khả năng tiếp cận sâu rộng hơn vào thị trường EU. Những ưu đãi thuế quan từ việc tham gia EVFTA làm giảm chi phí những nhóm hàng sản xuất trong nước, quy mô sản xuất được mở rộng và thúc đẩy xuất khẩu một cách mạnh mẽ sang các nước EU.Việc giảm thuế suất nhập khẩu của Việt Nam khi tham gia EVFTA giúp Việt Nam có lợi thế khi nhập khẩu các công nghệ và nguyên liệu có chất lượng cao với mức giá rẻ hơn từ Châu Âu. EVFTA cũng tạo ra xu hướng chuyển dịch xuất khẩu của EU khi các nước EU sẽ xuất khẩu các hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao sang Việt Nam.Các cam kết về hàng rào phi thuế quan như các rào cản kỹ thuật, xuất xứ hàng hóa trong EVFTA thúc đẩy phát triển xuất khẩu của Việt Nam, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

EVFTA góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi và thúc đẩy đầu từ trực tiếp của EU và các nước khác vào Việt Nam. Đầu tư vào Việt Nam ngày càng tăng do tận dụng những lợi thế được tạo ra từ EVFTA, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất hàng công nghệ cao, thu hút dòng vốn lớn vào các lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, năng lượng, viễn thông, vận tải…EVFTA đưa ra các cam kết khá chặt chẽ trong các điều khoản về lao động và công đoàn, do vậy thúc đẩy, nâng cao các tiêu chuẩn lao động ở Việt nam phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Tạo cơ hội việc làm chất lượng cao và tăng thu nhập cho người lao động ở nước ta, nâng cao đời sống của người dân.EVFTA thúc đẩy Việt Nam đưa ra các chính sách phù hợp, tái cấu trúc lại nền kinh tế theo xu hướng mới, phù hợp với bối cảnh mới, giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng và phát triển bền vững.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung và quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam với khu vực châu Âu nói riêng có sự đóng góp rất lớn của hệ thống các cơ quan Thương vụ của Bộ Công Thương. Các Thương vụ đã tham gia tích cực trong việc xây dựng chính sách thương mại để phát triển quan hệ thương mại, công nghiệp giữa Việt Nam với nước sở tại, mở rộng thị trường ngoài nước; tham gia đàm phán, ký kết FTA; cung cấp nhiều thông tin về thị trường cho các bộ, ngành và các doanh nghiệp giúp thâm nhậphiệu quả thị trường nước ngoài.

Trịnh Minh Anh - Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế

Theo: Báo Công Thương