Gỡ vướng EUDR: Thúc đẩy năng lực doanh nghiệp tự tin xuất khẩu xanh

(Banker.vn) Ngày 16/8, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) tổ chức Chương trình đào tạo, nâng cao năng lực phát triển xuất khẩu xanh.
Bộ Công Thương sẽ triển khai nhiều hoạt động xúc tiến xuất khẩu xanh Sản xuất xanh, ‘con đường độc đạo’ để xuất khẩu xanh Đắk Lắk: Thị trường cà phê hướng đến sản xuất và xuất khẩu xanh bền vững

Thách thức từ những quy định mới

Theo Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), châu Âu là thị trường nhập khẩu quan trọng các mặt hàng liên quan đến nạn phá rừng, bao gồm 50% cà phê và 60% ca cao của thế giới. Do đó, quy định không phá rừng nhằm giảm tác động của các sản phẩm do công dân Liên minh châu Âu (EU) mua đối với các khu rừng và diện tích rừng trên thế giới.

Quy định giảm mất rừng và suy thoái rừng (EUDR) được đề xuất nhắm vào những mặt hàng có tác động lớn đến nạn phá rừng và một số sản phẩm có nguồn gốc từ chúng như cà phê, ca cao, đậu nành, dầu cọ, gia súc, gỗ và sản phẩm gỗ…

Gỡ vướng EUDR: Thúc đẩy năng lực doanh nghiệp tự tin xuất khẩu xanh
Chương trình đào tạo, nâng cao năng lực phát triển xuất khẩu xanh. Ảnh: Ngọc Hoa

Đặc biệt, kể từ 29/6/2023, một số mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu vào EU đứng trước một “hàng rào” mới - Quy định chống phá rừng (The European Union Deforestation Regulation - EUDR) của EU. Các doanh nghiệp lớn sẽ có 18 tháng, doanh nghiệp nhỏ và vừa có 24 tháng để chuẩn bị và đáp ứng các yêu cầu của EUDR tính từ thời điểm quy định này có hiệu lực.

EUDR cấm nhập khẩu 7 nhóm mặt hàng vào EU nếu quá trình sản xuất các mặt hàng này gây mất rừng. Tại Việt Nam, ba nhóm ngành bị tác động chính bao gồm gỗ, cao su và cà phê.

Do đó, chương trình nhằm đào tạo, nâng cao năng lực giúp doanh nghiệp tự tin xuất khẩu xanh nhằm hỗ trợ các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp Việt Nam cập nhật thông tin về phát triển xuất khẩu xanh, nắm bắt và hiểu biết rõ về các đạo luật để phát triển thị trường xuất khẩu phù hợp và hiệu quả trong bối cảnh mới.

Chia sẻ tại chương trình, ông Đinh Sỹ Minh Lăng, Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ (Bộ Công Thương) đã chỉ ra 3 thách thức do tác động của EUDR đến doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể: Thứ nhất, chi phí xuất khẩu sang EU tăng, có khả năng gây rủi ro cho các công ty vừa và nhỏ: Thủ tục truy xuất nguồn gốc và chứng nhận của EUDR vì họ sẽ yêu cầu các công nghệ, quy trình và chi phí hành chính cho việc tuân thủ.

Thứ hai, hàng hoá của Việt Nam sẽ bị cạnh tranh xuất khẩu và mất thị phần tại EU bởi đối thủ cạnh tranh đã sẵn sàng cho việc tuân thủ đầy đủ EUDR.

Thứ ba, là hạn chế năng lực truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng. Trong đó, việc khó xác định vùng trồng hợp pháp ảnh hưởng đến kết quả đánh giá và phân loại rủi ro vùng trồng của EU theo quốc gia. Vùng sản xuất, mặc dù diện tích canh tác đối với cà phê, gỗ, cao su không lớn và canh tác ổn định.

Bên cạnh đó, việc kiểm soát nguyên liệu đầu vào trong chuỗi cung ứng cà phê, gỗ, cao su do đội ngũ thu mua, thương lái phức tạp tham gia vào chuỗi cung ứng, đặc biệt là đối với các mặt hàng gỗ trong thời gian vừa qua là minh chứng điển hình thể hiện tính phức tạp, không tuân thủ các yêu cầu pháp lý của các khâu trong chuỗi (vấn đề hoàn thuế VAT).

Nói thêm về thách thức của vùng sản xuất tại Việt Nam từ yêu cầu của EUDR, TS. Nguyễn Trung Kiên, Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: “EUDR yêu cầu 100% sản phẩm phải có định vị GPS/polygon đến từng mảnh vườn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỉ lệ này còn thấp, trong khi chi phí định vị lại cao. Tiếp đến, EUDR yêu cầu truy xuất vật lý đến vườn trồng nhưng quy mô này ở nước ta lại nhỏ lẻ, manh mún; chuỗi giá trị phức tạp với nhiều lớp trung gian; chi phí phát sinh rất lớn”.

Gỡ vướng EUDR: Thúc đẩy năng lực doanh nghiệp tự tin xuất khẩu xanh
TS. Nguyễn Trung Kiên chia sẻ tại chương trình. Ảnh: Phương Cúc

Bên cạnh đó, vì chưa rõ về nền bản đồ rừng tham chiếu phản ánh đúng thực trạng vào mốc 31/12/2020. Nhiều vùng đã chuyển sang trồng cà phê trước 2020 chưa thể hiện trên nền bản đồ rừng, một số chưa trùng khớp giữa bản đồ rừng và địa chính.

Ngoài ra, Việt Nam còn chưa có cơ chế, biện pháp phản hồi thông tin minh bạch, hoặc biện pháp hỗ trợ nông hộ nguy cơ cao không xâm lấn rừng và tham gia trồng phục hồi rừng. Đồng thời, cũng chưa có đánh giá tổng thể về nguy cơ xã hội và thử nghiệm giải pháp can thiệp.

Không để bỏ lỡ ''cuộc chơi''

Mặc dù tiềm ẩn nhiều thách thức, nhưng theo các chuyên gia nếu tận dụng thành công cơ hội xuất khẩu xanh sang EU, lợi ích Việt Nam có thể nhận được cũng khá đáng kể, bởi thương mại đối với công nghệ xanh và các sản phẩm bền vững đã và đang trở thành xu hướng phổ biến ở nhiều quốc gia.

Theo ông Đinh Sỹ Minh Lăng, nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Việt nếu tận dụng và trở thành bạn hàng thân thiết của châu Âu.

"Sản phẩm tuân thủ yêu cầu về EUDR và có chứng chỉ của Hội đồng quản lý rừng thế giới (FSC) sẽ làm tăng tính cạnh tranh và uy tín của Doanh nghiệp trên thị trường quốc tế" - đại diện Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ nhấn mạnh.

Việc hình thành chuỗi cung ứng sản phẩm bền vững theo một chiến lược bài bản về vùng trồng và nguồn nguyên liệu hợp pháp (nguồn gốc và vị trí đất đai, truy xuất nguồn gốc, chia sẻ thông tin và phối hợp nhận hỗ trợ của cơ quan quản lý, hiệp hội nhằm đáp ứng tuân thủ...), nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nguồn cung và đảm bảo là sự lựa chọn ưu tiên đối với bạn hàng châu Âu.

Tiếp đến, doanh nghiệp đáp ứng EUDR, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp xanh sẽ góp phần làm giảm phát thải khí nhà kính xây dựng môi trường sống xanh, giảm thiểu biến đổi khí hậu, gây tác động không tốt tới hệ sinh thái rừng, xây dựng nền tảng để sẵn sàng đáp ứng cho các quy định xanh khác của EU.

Đánh giá các tác động từ xu hướng chuyển đổi xanh trong thương mại quốc tế xuất khẩu trong bối cảnh thực thi EUDR, TS. Nguyễn Trung Kiên cho rằng, mục tiêu của quy định EUDR được đề xuất nhắm vào những mặt hàng có tác động lớn đến nạn phá rừng và một số sản phẩm có nguồn gốc từ chúng như cà phê, ca cao, đậu nành, dầu cọ, gia súc, gỗ và sản phẩm gỗ…

Do đó, Việt Nam cần có một khung kế hoạch hành động thích ứng với quy định chống phá rừng của EU để doanh nghiệp có thể “vượt rào”, tự tin xuất khẩu xanh sang thị trường EU như xây dựng khung hợp tác công tư trong EUDR; tuyên truyền, vận động; các giải pháp kĩ thuật; xây dựng và vận hành cơ chế đối thoại và đàm phán với EU về EUDR và các quy định khác; huy động nguồn lực.

Về khung kế hoạch thích ứng với EUDR, ông Kiên cho biết, việc thành lập liên minh công tư nhằm chia sẻ và bảo mật thông tin, dữ liệu về xây dựng hệ thống rừng và sản xuất đáp ứng EUDR tại Đắk Lắk và Lâm Đồng, dự kiến mở rộng sang Gia Lai.

Lý giải vì sao cần hợp tác công tư, TS. Nguyễn Trung Kiên nhấn mạnh: “Hợp tác công tư cung cấp hệ thống thông tin vùng sản xuất dựa trên chuyển đổi dữ liệu địa chính và khảo sát xác nhận thông tin.

Chi phí hợp tác công tư sẽ thấp hơn, chỉ khoảng 3,7 USD/ha, trong khi nếu triển khai đơn lẻ, doanh nghiệp sẽ phải trả khoảng 10 USD/ha. Ngoài ra, triển khai đồng bộ, tạo ra hệ thống phục vụ đa cây trồng, đa mục đích, đa thị trường và kết nối với giải pháp truy xuất nguồn gốc theo vùng. Sau cùng, hợp tác công tư còn tạo điều kiện cho các nông hộ tiếp cận thị trường”.

Để không bị loại khỏi ''cuộc chơi'' bởi các tiêu chuẩn cao về môi trường và xã hội do các thị trường nhập khẩu đặt ra, các doanh nghiệp của Việt Nam cần thay đổi tư duy, quan tâm tới “tính xanh” của chuỗi cung ứng trong thương mại quốc tế để đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật khắt khe của thị trường khó tính như EU.

Phương Cúc - Ngọc Hoa

Theo: Báo Công Thương
    Bài cùng chuyên mục