Giải pháp tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp

(Banker.vn) Ngày 25/7/2023, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Thời báo Ngân hàng phối hợp với các đơn vị liên quan đã tổ chức Hội thảo “Tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp”.
Ngày 25/7/2023, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Thời báo Ngân hàng phối hợp với các đơn vị liên quan đã tổ chức Hội thảo “Tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp”.

Hội thảo do Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú và ông Nguyễn Văn Thân - Đại biểu Quốc hội khóa XV, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chủ trì. Hội thảo còn có sự tham gia của gần 400 đại biểu là các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế - tài chính hàng đầu trong nước và quốc tế, đại diện doanh nghiệp, hiệp hội, ngành nghề…

Bám sát thực tiễn để tăng trưởng tín dụng

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết: Tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp là vấn đề đang được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương, các hiệp hội ngành nghề, đặc biệt là các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng thương mại rất quan tâm nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy quá trình phục hồi và phát triển kinh tế.
 
Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú phát biểu khai mạc Hội thảo

Thời gian qua, NHNN cũng đã nhận được nhiều ý kiến, kiến nghị của các hiệp hội, ngành nghề, các chuyên gia và đặc biệt là những chỉ đạo tích cực, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho doanh nghiệp, người dân, góp phần cùng các cấp, các ngành, các địa phương, các hiệp hội, ngành nghề giải quyết “bài toán” tăng sức hấp thụ vốn cho doanh nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn hiện nay.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, kinh tế thế giới tiếp tục biến động nhanh, khó lường, sản xuất thương mại toàn cầu khó khăn; cuộc cạnh tranh chiến lược, xung đột địa chính trị giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; lạm phát ở mức cao, chính sách tiền tệ thắt chặt và lãi suất tăng lên rất nhanh, kéo dài. Trong nước, tăng trưởng kinh tế thấp hơn kịch bản đề ra trong bối cảnh tổng cầu thế giới giảm cùng những khó khăn nội tại của nền kinh tế; các thị trường xuất nhập khẩu lớn, truyền thống của Việt Nam bị thu hẹp từ sau dịch Covid-19; sức chống chịu của doanh nghiệp bị bào mòn; lạm phát đối diện với nhiều yếu tố tiềm ẩn rủi ro.

Những diễn biến này đã, đang khiến cho tăng trưởng kinh tế thế giới và trong nước phục hồi chậm và còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến tăng trưởng tín dụng trong 6 tháng đầu năm 2023 của ngành Ngân hàng ở mức thấp, mặc dù NHNN và toàn ngành Ngân hàng đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, người dân.
 
Với vai trò điều hành chính sách tiền tệ, chưa bao giờ NHNN điều hành chính sách tiền tệ khó khăn như thời điểm cuối năm 2022 và hiện nay. Bởi lẽ, điều hành chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở cửa không thể tránh những tác động từ chính sách tài chính, tiền tệ nói chung và từ các quốc gia khác. Đặc biệt, nền kinh tế Việt Nam cũng rất khó khăn sau hai năm đại dịch; sức chống chịu, năng lực tài chính của doanh nghiệp đã bị bào mòn. Đối với NHNN, rất nhiều năm qua mới phải điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh khó khăn như vậy. Tăng lãi suất hay giảm lãi suất; cung tiền ra nhiều hay ít; làm thế nào để tăng tín dụng, hài hòa giữa chất lượng và số lượng tín dụng, hạn chế nợ xấu, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia… đều là những vấn đề NHNN phải lưu ý và điều hành. Sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ quyết định sự an toàn, lành mạnh của nền tài chính quốc gia trong cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Đây là nhiệm vụ rất khó của NHNN bởi vì có nhiều mục tiêu sẽ ngược chiều nhau.

Nếu như mở rộng, hạ điều kiện thì tín dụng có thể tăng ồ ạt sẽ để lại sự mất an toàn hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) ngay trong ngắn hạn; câu chuyện nợ xấu và sự suy giảm của các ngân hàng thương mại (NHTM) sẽ ngay lập tức bị ảnh hưởng; chưa kể đến lãi suất và cung tiền trong thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát...

Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN nhận thức được trách nhiệm giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn lúc này. Có thể nói, thanh khoản cho nền kinh tế đến thời điểm này rất dồi dào. Lãi suất - yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến giá đầu vào của doanh nghiệp được điều hành hài hòa với tỉ giá, nếu không sẽ không tạo được niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước, ảnh hưởng rất nhiều đến quyền lợi quốc gia. Do đó, vấn đề điều hành tín dụng đang rất được NHNN quan tâm. Bên cạnh những giải pháp về nguồn cung tiền, tạo thanh khoản cho nền kinh tế, cho các TCTD và tạo nguồn vốn rẻ cho các ngân hàng, hạ lãi suất hỗ trợ các doanh nghiệp, tạo động lực cho nền kinh tế, doanh nghiệp nhỏ và vừa… cũng đã được NHNN triển khai quyết liệt.

Bên cạnh đó, các gói tín dụng hỗ trợ ngành bất động sản như gói 120.000 tỉ đồng; gói 15.000 tỉ đồng mới được công bố và đang được triển khai cho vay lâm nghiệp, thủy sản và một loạt các chương trình khác được các ngân hàng triển khai… Tuy nhiên, chừng đó vẫn chưa đủ để tín dụng tăng trưởng.

Vì vậy, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú mong muốn các chuyên gia, nhà khoa học, các hiệp hội, ngành nghề, kể cả các ngân hàng thương mại cùng trao đổi để có đánh giá chung về lí do vì sao tăng trưởng tín dụng chưa đạt kì vọng, góp phần giúp NHNN có thêm những giải pháp điều hành bám sát thực tiễn để tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân.

Khó khăn, trắc trở trong phục hồi kinh tế sau dịch Covid-19

Ông Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh nhận định, trong giai đoạn 2020 - 2021, kinh tế bị tác động bởi cách kiểm soát, ứng phó với Covid-19. Mặc dù Việt Nam đã có giai đoạn phục hồi tăng trưởng với mức cao hơn nhiều so với thế giới nhưng đà phục hồi đã chững lại từ quý III/2022; xu hướng sắp tới có khả năng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ khá đồng điệu cùng tình hình kinh tế thế giới.
 
Ông Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh
tham luận tại Hội thảo

Nhiều tổ chức quốc tế có cái nhìn ít lạc quan về kinh tế thế giới. “Trắc trở” đến cả từ trong lẫn ngoài. Vì vậy, mục tiêu tăng trưởng 6,0 - 6,5% trong năm 2023 của nước ta là rất thách thức, tùy thuộc nỗ lực bản thân Việt Nam và diễn biến trên thế giới.

Theo ông Võ Trí Thành, hiện nay, có hai “cơn gió ngược” cùng bất định, rủi ro từ bên ngoài. Cơn gió ngược thứ nhất đến từ sự suy giảm kinh tế thế giới, đặc biệt là ở nhiều đối tác chính của Việt Nam. Cơn gió này sẽ tăng hay giảm cấp là điều khó đoán định. Cơn gió ngược thứ hai từ điều kiện tài chính tiền tệ “ngặt nghèo”, lạm phát chạm đỉnh, khó kiểm soát ở nhiều quốc gia lớn, nhưng gần đây lạm phát giảm nhanh hơn dự báo, ví dụ Mỹ chỉ còn tăng 3% so với cùng kì… Xác suất cao là cơn gió này sẽ giảm cấp.

Về lĩnh vực tài chính tiền tệ, năm 2022, Việt Nam chịu áp lực từ bên ngoài lên lãi suất, tỉ giá; lạm phát toàn phần ở mức trung bình thấp, nhưng lạm phát lõi cao; thanh khoản thiếu hụt cả trong hệ thống ngân hàng và trên thị trường; sự rung lắc thị trường chứng khóan và trái phiếu doanh nghiệp cùng thị trường bất động sản; niềm tin thị trường giảm sút…

Thanh khoản gần đây đã cải thiện, biến động tỉ giá thấp, NHNN đã bốn lần giảm lãi suất và mua vào ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối, lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại gần đây ít nhiều hạ nhiệt.

Để tháo gỡ khó khăn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản, chúng ta đang triển khai sửa đổi khung pháp lí, hỗ trợ thị trường tài chính, tái cấu trúc thị trường bất động sản, nhưng kết quả còn hạn chế.

“Đẩy nhanh giải ngân đầu tư công được coi là trụ đỡ cho phục hồi tăng trưởng năm 2023, bên cạnh chương trình phục hồi phát triển có điều chỉnh các gói hỗ trợ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp như tiếp tục giãn, khoanh nợ, giảm lãi suất thị trường cùng với thực hiện các gói tín dụng ưu đãi, đặc biệt là chính sách tài khóa như giãn, giảm thuế phí”, ông Võ Trí Thành nêu quan điểm.

Hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng nền kinh tế

Phát biểu tại Hội thảo, bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN cho biết: Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát được Quốc hội, Chính phủ đặt ra, tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 17/01/2023, NHNN đã định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2023 khoảng 14 - 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, chỉ đạo các TCTD hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng; tích cực triển khai các chương trình tín dụng đặc thù theo chủ chương, chính sách, chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trọng tâm là chính sách hỗ trợ lãi suất đối với một số ngành, lĩnh vực theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội và Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ.
 
Bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN tham luận tại Hội thảo
 
Bên cạnh đó, NHNN triển khai các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng tiếp cận, hấp thụ vốn của người dân, doanh nghiệp, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, để tăng cường khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp, thời gian qua, NHNN đã chủ động triển khai nhiều giải pháp, như chỉ đạo TCTD đa dạng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục cho vay; tiếp tục triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; tăng cường hoạt động truyền thông, phổ biến về cơ chế, chính sách, chương trình tín dụng bằng nhiều hình thức để người dân, doanh nghiệp hiểu và tiếp cận các chính sách, sản phẩm, dịch vụ tín dụng ngân hàng; tiếp tục đẩy mạnh triển khai một số chương trình tín dụng tiêu dùng.

Ngành Ngân hàng đã kịp thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn về tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản; chỉ đạo các NHTM triển khai Chương trình cho vay đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản với quy mô 15.000 tỉ đồng (cao hơn dự kiến đặt ra là 10.000 tỉ đồng) từ nguồn lực của chính ngân hàng thương mại; ban hành chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN để tạo điều kiện cho khách hàng được điều chỉnh kì hạn trả nợ, kéo dài thời gian trả nợ mà không bị chuyển nhóm nợ xấu, qua đó khách hàng có điều kiện được tiếp cận các khoản vay mới...

Đồng thời, NHNN kịp thời tổ chức các hội nghị chuyên đề tín dụng, các buổi làm việc với các cơ quan liên quan nhằm nhận diện các khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp đối với một số ngành, lĩnh vực; tiếp tục triển khai với quyết tâm cao nhất chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh…

Về lãi suất, từ đầu năm 2023 tới nay, NHNN đã bốn lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất với mức giảm 0,5 - 2,0%/năm nhằm tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp hơn, từ đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, làm việc trực tiếp với các TCTD, yêu cầu các TCTD tiết giảm chi phí hoạt động, giảm lãi suất tiền gửi, qua đó tạo dư địa để giảm lãi suất cho vay.

Bên cạnh tín dụng thương mại, các chương trình tín dụng chính sách thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội tiếp tục được tạo điều kiện, đẩy mạnh triển khai. Theo đó, đến ngày 30/6/2023, tổng dư nợ tín dụng chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 304.431 tỉ đồng, tăng 7,4% so với năm 2022 với hơn 6.677 nghìn hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác còn dư nợ; trong đó, dư nợ các chính sách tín dụng thực hiện trong khuôn khổ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đạt 19.090 tỉ đồng.

“Như vậy, thời gian qua công tác điều hành cũng như việc thực hiện các giải pháp của NHNN được thực hiện theo hướng ngày càng tạo thuận lợi cho việc tiếp cận tín dụng và góp phần tăng khả năng hấp thụ vốn của người dân, doanh nghiệp” - bà Hà Thu Giang khẳng định.

Đánh giá rất cao nỗ lực ngành Ngân hàng, đặc biệt là NHNN

Đó là ý kiến của ông Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.

“Nhìn lại thời gian qua, NHNN không chỉ làm tốt nhiệm vụ giữ vững được sự ổn định tỉ giá, giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát và đảm bảo kinh tế vĩ mô, mà còn triển khai tốt nhiệm vụ rất quan trọng là giảm lãi suất điều hành tới bốn lần với mức giảm từ 0,5% - 2%/năm; từ đó, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tiếp cận chi phí vốn hợp lí” - ông Nguyễn Văn Thân cho biết.
 
Ông Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tham luận tại Hội thảo

Từ khi dịch Covid-19 xuất hiện, đến thời điểm này, ngành Ngân hàng với Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã phối hợp với nhau rất chặt chẽ và tích cực trong việc hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sự hỗ trợ tích cực thể hiện ở chỗ: Hiệp hội đã tham mưu và đề xuất với ngành Ngân hàng đưa ra rất nhiều chính sách, thông tư, văn bản rất cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa như hoãn, giãn nợ, khoanh nợ xấu, giảm lãi suất; đồng thời đề xuất phối hợp với Bộ Tài chính triển khai các chương trình hỗ trợ miễn giảm các loại thuế, phí, lệ phí. Có thể nói, các chính sách của ngành Ngân hàng đã đánh đúng và trúng vào những điểm nghẽn khó khăn của doanh nghiệp, sát sườn nhất đó là việc hỗ trợ nguồn vốn đối với doanh nghiệp. Tính hiệu quả của hoạt động này rất cụ thể khi trong số hơn 6 triệu tỉ đồng cho vay toàn nền kinh tế, thì dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt khoảng 2,3 triệu tỉ đồng. Xét về tỉ lệ cho vay thì dư nợ tín dụng năm sau cao hơn năm trước.

Đến thời điểm này, phải khẳng định lại lần nữa về mức độ quan tâm, hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngành Ngân hàng là rất lớn.

Theo ông Nguyễn Văn Thân, mặc dù việc hỗ trợ của ngành Ngân hàng đã làm tốt rồi nhưng hiện nay, có một thực trạng là số lượng các doanh nghiệp không vay được vốn tín dụng vẫn còn tương đối nhiều. Theo đánh giá, ngoài những các tác động khách quan từ thị trường, thì các chính sách của Nhà nước vẫn chưa phát huy được tính đồng bộ; trong khi đó, bản thân các doanh nghiệp cũng chưa chứng minh được năng lực hoàn vốn cũng như năng lực quản lí, kế hoạch sản xuất, kinh doanh và minh bạch tài chính… Do vậy, để tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp, thì chính sách giảm lãi suất chỉ là một trong các giải pháp cần được tiếp tục triển khai.

Nguyên nhân lớn nhất khiến tín dụng tăng thấp là các doanh nghiệp thiếu đơn hàng để sản xuất

Tại Hội thảo, các đại biểu đến từ các bộ, cơ quan quản lí, hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế và cả các TCTD đã tập trung phân tích, làm rõ nguyên nhân khiến tín dụng tăng thấp. Theo đó, nguyên nhân lớn nhất là do các doanh nghiệp thiếu đơn hàng để sản xuất, trong khi chi phí sản xuất tăng cao khiến hiệu quả hoạt động suy giảm. Nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm lao động, thu hẹp sản xuất, thậm chí phải đóng cửa, ngừng hoạt động vì thua lỗ, dẫn tới nhu cầu vốn vay giảm...
 
Phiên thảo luận của Hội thảo

Ông Ketut Ariadi Kusuma, Chuyên gia tài chính cao cấp về Ngân hàng/Tài chính của Ngân hàng Thế giới (WB), Trưởng nhóm Tài chính, Cạnh tranh và Sáng tạo của WB tại Việt Nam cho rằng, tín dụng tăng trưởng chậm trong 6 tháng đầu năm 2023 là do cầu suy yếu, điều này ảnh hưởng tới thu nhập và tiêu dùng của người dân và doanh nghiệp. “Vấn đề ở đây không phải là doanh nghiệp không có năng lực mà họ không muốn vay vốn”, ông Ketut Ariadi Kusuma nói.

“Cũng chính bởi cầu trong nước và thế giới yếu đi dẫn đến đơn hàng giảm sút nên mặc dù ngành Ngân hàng đã bốn lần giảm lãi suất điều hành, nhưng doanh nghiệp cũng không có nhu cầu vay vốn. Đối với May 10, là đơn vị uy tín trong ngành, nằm trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu, được ngân hàng xếp vào khối doanh nghiệp lớn, uy tín và rất được ngân hàng tạo mọi điều kiện trong việc hỗ trợ tiếp cận tín dụng, nhưng do nhu cầu thị trường bị thu hẹp, nên May 10 cũng đã linh hoạt sử dụng nguồn vốn tự có, giảm thiểu tối đa vay vốn ngân hàng để cân đối chi phí tài chính. Cho đến khi nào tình hình thị trường hồi phục trở lại, nhiều đơn hàng mở ra thì khi ấy doanh nghiệp mới tăng nhu cầu vay vốn ngân hàng” - ông Thân Đức Việt, Tổng Giám đốc Tổng Công ty May 10, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam chia sẻ.

Ông Trần Long, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cũng nhận định, tăng trưởng tín dụng thấp là do nhu cầu vốn trong nền kinh tế giảm rõ rệt. Nguyên nhân là do đơn hàng, đầu ra sản phẩm của doanh nghiệp giảm, các phương án kinh doanh dự án khả thi của doanh nghiệp ít… dẫn đến doanh nghiệp cũng hạn chế tiếp cận vốn ngân hàng.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, việc giảm lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp cũng không phải là vấn đề cốt lõi giúp cho các doanh nghiệp phục hồi. Giảm lãi suất nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng đủ điều kiện vay ngân hàng, như tài sản bảo đảm không đủ, kinh doanh thua lỗ, cơ cấu nợ, điều chỉnh trả nợ để được vay tiếp hoặc không quản lí được dòng tiền. Thực tế, kinh tế khó khăn, nguồn lực của doanh nghiệp bị cạn kiệt dẫn tới việc các doanh nghiệp không đủ điều kiện để vay vốn ngân hàng và ngân hàng cũng không thể tự ý hạ tiêu chuẩn, giảm các quy định, điều kiện cho vay mà vẫn phải thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quản trị rủi ro, an toàn hệ thống. Đặc biệt, trong bối cảnh thực hiện quyết liệt các giải pháp cơ cấu lại hoạt động ngân hàng, các TCTD đang ngày càng đẩy mạnh áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, đòi hỏi ngày càng cao tính minh bạch, do đó không thể thực hiện các giải pháp về hạ chuẩn điều kiện cấp tín dụng.

Cần có sự phối hợp đồng bộ từ các bộ, ngành, địa phương trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp

Trước thực trạng trên, để tăng khả năng hấp thụ vốn của người dân, doanh nghiệp, ngoài giải pháp, chính sách từ ngành Ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ từ các bộ, ngành, địa phương trong việc tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh theo chủ trương của Quốc hội, Chính phủ.

Về chiến lược lâu dài, ông Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho rằng, Nhà nước, đặc biệt là Chính phủ cần hỗ trợ, nâng tầm doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua nhiều giải pháp như sớm sửa đổi Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng từng bước chuyển hướng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ chiều rộng, dàn trải sang chiều sâu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp cơ cấu lại năng lực sản xuất nhằm phát triển ổn định, lâu dài, trong đó có việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào 30% các dự án đầu tư công; tập trung thực thi có hiệu quả nhóm giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững, phát triển chuỗi giá trị; cải tổ các quỹ bảo lãnh tín dụng và tăng cường vai trò của các cơ quan quản lí địa phương trong việc hỗ trợ đánh giá, xác nhận tín nhiệm của doanh nghiệp để bảo lãnh cho vay… Với đồng bộ các giải pháp nêu trên, doanh nghiệp nhỏ và vừa chắc chắn sẽ hấp thụ được vốn tốt hơn và hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ ngày càng phát triển hơn.

Ông Nguyễn Văn Thân nhấn mạnh, các doanh nghiệp cần phải nâng tầm trình độ về quản lí, kế hoạch sản xuất kinh doanh và minh bạch tài chính… Khi các ngân hàng yên tâm về sức khỏe của doanh nghiệp thì chắc chắn các ngân hàng sẽ không từ chối cho vay. Trước mắt, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa và NHNN sẽ sớm tham mưu giải pháp tháo gỡ khó khăn ngắn hạn cho doanh nghiệp, chẳng hạn tháo gỡ khó khăn về điều kiện vay. Ngoài ra, chính sách tài khóa cần phải có quy định rõ ràng, mạch lạc, giúp doanh nghiệp dễ tiếp cận được các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước.

Về phía ngân hàng, Phó Tổng Giám đốc BIDV Trần Long cho biết, BIDV đã chủ động rà soát và tích cực triển khai số hóa nhằm tinh gọn quy trình, thủ tục cho vay, từ khâu tiếp nhận nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp đến số hóa quy trình phê duyệt, giải ngân nhằm đơn giản hóa thủ tục; tích cực nghiên cứu, phát triển và đưa các sản phẩm tín dụng lên kênh số (website, mobile app, SMS) để khách hàng dễ dàng tiếp cận, tiết giảm thời gian xử lí, nâng cao trải nghiệm của khách hàng; tích cực đẩy mạnh triển khai các cơ chế tài trợ chuỗi cung ứng; thường xuyên rà soát các quy định nhằm tinh giản quy trình, thủ tục đối với khách hàng.

Hiện nay, BIDV đã xây dựng quy trình cấp tín dụng đặc thù đối với doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và vừa với cơ chế đơn giản hóa về hồ sơ thủ tục, mẫu biểu khách hàng phải cung cấp, tinh giản quy trình nội bộ (phê duyệt, giải ngân), từ đó rút ngắn thời gian cấp tín dụng đối với khách hàng; ban hành các sản phẩm tín dụng theo lĩnh vực ngành nghề với quy trình rút gọn phù hợp với đặc điểm ngành kèm theo cơ chế cạnh tranh để thúc đẩy phát triển tín dụng ngành như: gói sản phẩm tài trợ doanh nghiệp ngành dược phẩm, ngành sản xuất thiết bị điện, ngành xây lắp...

Ngoài các giải pháp trên, BIDV quán triệt toàn hệ thống chủ động phân nhóm khách hàng để triển khai các giải pháp hỗ trợ phù hợp nhằm cung ứng vốn tín dụng kịp thời giúp các doanh nghiệp phục hồi, duy trì, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh và tình hình mới.

Phát biểu kết luận Hội thảo, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho biết, với tinh thần đồng hành, chia sẻ cùng người dân, doanh nghiệp, ngành Ngân hàng sẵn sàng triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, cung ứng đủ vốn để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng phát triển kinh tế trong tình hình mới.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú chỉ ra nguyên nhân tín dụng tăng trưởng đầu năm đến nay chỉ tăng 4,73% so với cuối năm 2022, bằng một nửa so với tốc độ tăng trưởng cùng kì, trong bối cảnh cơ chế, chính sách không có gì thay đổi. Nguyên nhân xuất phát từ những khó khăn chung của nền kinh tế khi bối cảnh thế giới và trong nước đều có nhiều biến động. Theo đó, các khó khăn có thể kể đến là: Cầu đầu tư và tiêu dùng trong nước lẫn quốc tế đang giảm; từ cầu giảm dẫn đến tồn kho của hàng hóa, cả ngân hàng và doanh nghiệp đều trong tình trạng “tồn kho”; các chính sách nói chung và đặc biệt một số chính sách có ý nghĩa tác động hỗ trợ cho doanh nghiệp hiện nay phần nào còn cầm chừng, một số chính sách còn hạn chế kể từ trung ương đến chính quyền địa phương; công tác truyền thông cần đẩy mạnh, chính sách phát triển thị trường, tài khóa, phát triển thị trường… chưa thực sự đồng đều; mối quan hệ doanh nghiệp và ngân hàng, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau vẫn còn vấn đề về niềm tin; bản thân các doanh nghiệp cũng còn rất hạn chế, khó khăn trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là minh bạch dòng tiền, minh bạch báo cáo tài chính, vì vậy việc chuyển từ trạng thái cho vay bằng tài sản bảo đảm sang quản lí bằng dòng tiền của ngân hàng gặp khó; thị trường bất động sản đang trầm lắng khiến tín dụng cũng trầm lắng theo, bên cạnh đó, thị trường trái phiếu cũng đang không kéo được thị trường vốn ngắn hạn đi cùng.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh, đối với riêng ngành Ngân hàng, những khó khăn nêu trên cũng đã tác động đến nhiều mặt hoạt động nhưng NHNN đã tích cực đưa ra các giải pháp có tính khả thi, điều hành và xử lí những vấn đề có tính chất ngắn hạn trước mắt, góp phần không để xảy ra đổ vỡ doanh nghiệp, cắt giảm lao động, dẫn đến câu chuyện thất nghiệp tăng lên kéo theo vấn đề xã hội. Tuy nhiên, điều hành chính sách tiền tệ không phải là “đôi đũa thần”, khi lãi suất giảm thì đó cũng chỉ là một công cụ để hỗ trợ doanh nghiệp chứ không thay thế được tất cả những chính sách khác. Nếu quá dựa vào chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn có thể giải quyết được khó khăn của doanh nghiệp nhưng trong trung và dài hạn, sẽ bộc lộ bất ổn về nợ xấu và an toàn hệ thống.

Trong thời gian tới, chính sách tiền tệ vẫn nhận thấy trách nhiệm và thể hiện quyết tâm cao nhất, đó là vẫn sẽ sử dụng linh hoạt hơn nữa các công cụ mà NHNN có để điều tiết thị trường như vấn đề cung ứng thanh khoản cho nền kinh tế, sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối để đảm bảo ổn định tỉ giá. Bên cạnh đó, NHNN sẽ tiếp tục giảm lãi suất nhưng phải hài hòa, không thể chỉ vì mục tiêu trước mắt mà để lại hậu quả dài hạn. Các NHTM sẽ tiếp tục tiết giảm chi phí, để qua đó hạ lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp. Ngoài ra, trong điều kiện chính sách của Fed và một số nước đã giảm nhiệt, với dự trữ ngoại hối hiện nay, NHNN tiếp tục làm chủ được thị trường tỉ giá và tiếp tục mục tiêu giữ ổn định tỉ giá.

Bên cạnh đó, NHNN sẽ tiếp tục đẩy mạnh những chương trình tín dụng chính sách tiêu dùng, đặc biệt chính sách an sinh xã hội để giải quyết vấn đề tâm lí thị trường và đời sống. Đây là giải pháp rất hiệu quả và thiết thực lúc này.

Về định hướng điều hành tín dụng, NHNN sẽ tiếp tục tập trung vào lĩnh vực kinh tế trọng điểm, trọng tâm, vào các lĩnh vực cần có sự ưu đãi của Chính phủ. Đây cũng là một trong những cơ hội chuyển đổi cơ cấu tín dụng một cách hợp lí; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ trong hoạt động ngân hàng. Vừa qua, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng đã tạo điều kiện pháp lí để các ngân hàng đẩy mạnh cho vay trực tuyến, qua đó, chắc chắn sẽ giảm chi phí tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp và tạo điều kiện để ngân hàng giảm lãi suất thông qua giảm bớt được nhiều thủ tục hành chính.

Hệ thống ngân hàng tiếp tục triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn theo quy định tại Thông tư số 02/2023/TT-NHNN; kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh thực hiện các gói tín dụng đã công bố như gói 120.000 tỉ đồng cho nhà ở xã hội, gói 15.000 tỉ đồng cho lĩnh vực lâm nghiệp, thủy sản; tiếp tục tập trung tín dụng chính sách thông qua hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội...

NHNN cũng sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, đặc biệt tiếp tục hỗ trợ những chính sách tín dụng về vốn trung, dài hạn cho đầu tư hạ tầng cơ sở và phối hợp với vốn đầu tư công để xây dựng đường xá giao thông; tiếp tục hỗ trợ thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản; có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp khi chuyển từ xuất khẩu qua đẩy mạnh thị trường nội địa…

Để tăng khả năng tiếp cận vốn và hấp thụ vốn của người dân, doanh nghiệp, ngoài giải pháp, chính sách từ ngành Ngân hàng, theo Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú, cần có sự phối hợp đồng bộ từ các chính sách khác nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh. 

Phó Thống đốc Đào Minh Tú đề nghị các giải pháp đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, tập trung khai thác, vận dụng và phát huy có hiệu quả, thực chất các hiệp định thương mại tự do. Qua đó thúc đẩy xuất khẩu và gia tăng các đơn hàng xuất khẩu; thúc đẩy hoạt động các doanh nghiệp tạo công ăn việc làm và gia tăng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế đối với hệ thống ngân hàng; có các giải pháp khai thác cầu nội địa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm sự phụ thuộc vào cầu nước ngoài để tăng tính độc lập tự chủ nền kinh tế; cần xử lý triệt để các vấn đề tồn tại của thị trường bất động sản, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, để qua đó góp phần đẩy mạnh cả cung và cầu tín dụng.

Về phía các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng, cần tăng cường trao đổi, truyền thông hướng dẫn đối với các doanh nghiệp thành viên, đồng thời tăng cường phối hợp với NHNN, các bộ, ngành, các TCTD trong việc cung cấp thông tin, chính sách của Nhà nước để hỗ trợ hiệu quả quá trình tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần tích cực thực hiện các biện pháp tái cấu trúc hoạt động, cắt giảm những mảng hoạt động kinh doanh không hiệu quả, đảm bảo tài chính phục vụ hoạt động kinh doanh cốt lõi của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng cần tiết giảm chi phí phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; mở rộng, tìm kiếm các đối tác, nhà phân phối để nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hóa, giảm thiểu lượng hàng tồn kho. 

Để tiếp cận vốn thuận lợi, doanh nghiệp cần xây dựng các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi; tăng cường quản lí thanh khoản, dòng tiền của các phương án kinh doanh; không sử dụng nguồn vốn sai mục đích/tận dụng để bù đắp cho những phương án kinh doanh không hiệu quả; xây dựng định hướng chiến lược rõ ràng, tham gia các hoạt động tư vấn để dự báo được những biến động của thị trường và có phương án xử lí phù hợp.

Riêng đối với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, Phó Thống đốc Đào Minh Tú lưu ý, cần nâng cao năng lực quản trị điều hành, xây dựng các phương án, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, minh bạch tình hình tài chính… để các TCTD có cơ sở thẩm định, quyết định cho vay cũng như tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn từ các kênh huy động khác.

Về phía ngân hàng, cần tích cực thực hiện các cơ chế, chính sách mà NHNN ban hành. Bên cạnh đó, đặt mình vào vị trí của doanh nghiệp để thấy khó khăn của nhau, mạnh dạn hơn với những quyết định cho vay khi NHNN đã trao quyền quyết định cho NHTM. Để đi được đến điểm chung, hai bên phải có sự phối hợp, hợp tác, tăng niềm tin, chữ tín với nhau, đó là chìa khóa quan trọng để giải quyết bài toán tăng tín dụng.

Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho rằng, với những giải pháp của ngành Ngân hàng và sự tham gia đồng bộ của các bộ, ban, ngành, các hội, hiệp hội doanh nghiệp sẽ giúp tăng khả năng hấp thụ vốn cho cộng đồng doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp sớm vượt qua khó khăn, khôi phục sản xuất, kinh doanh, tạo đà phát triển trong thời gian tới.

ĐT
Theo: Tạp chí Ngân hàng