Đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm chè Thái Nguyên

(Banker.vn) Không chỉ là cây làm giàu, cây chè còn gắn với bản sắc văn hóa các dân tộc trong tỉnh, vì vậy, cần có giải pháp nâng cao giá trị thương hiệu chè Thái Nguyên.
Dấu ấn nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” Xây dựng chè Thái Nguyên thành thương hiệu quốc gia

Cây trồng làm giàu cho bà con vùng cao

Xác định cây chè là cây trồng thế mạnh, một trong những nông sản chủ lực, tỉnh Thái Nguyên đã tập trung phát triển cây chè theo hướng vừa mở rộng quy mô diện tích, vừa nâng cao chất lượng, giá trị, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

Đến nay, Thái Nguyên là địa phương có diện tích chè lớn nhất cả nước, với trên 22,2 nghìn ha, trong đó diện tích chè cho sản phẩm đạt 20,9 nghìn ha. Sản lượng chè búp tươi đạt trên 260 nghìn tấn, giá bán chè Thái Nguyên luôn ở mức cao hơn các vùng chè khác trong cả nước.

Đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm chè Thái Nguyên
Diện tích chè kinh doanh của xã Khe Mo khoảng 400ha

Năm 2022, giá trị sản phẩm chè qua chế biến đạt trên 10.400 tỷ đồng. Cây chè ngày càng khẳng định được vị thế trong phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây trồng làm giàu cho bà con vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở Thái Nguyên.

Ghi nhận tại xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ cho thấy, đời sống kinh tế - xã hội của bà con nơi đây đang đổi thay từng ngày nhờ cây chè. Diện tích chè kinh doanh của xã khoảng 400ha, được trồng, chăm sóc theo các quy định nghiêm ngặt về sản xuất chè sạch và an toàn. Nhiều năm nay, thu nhập từ loại cây trồng mũi nhọn này đã giúp các hộ dân trong xã có đời sống ngày càng sung túc hơn.

Khe Mo đặt kế hoạch mở rộng diện tích trồng cây chè, phát triển sản xuất kinh doanh sản phẩm từ cây chè tập trung ở các xóm Tiền Phong, Ao Rôm, Ao Đậu... Được biết, giống chè bà con Khe Mo canh tác chủ yếu là các loại chè cành như Bát Tiên, Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên, Hùng Đỉnh Bạch, Long Vân và chè lai F1. Đó là những loại chè thông dụng, cho năng suất cao và được người tiêu dùng ưa thích.

Để tăng năng suất và chất lượng, nhiều năm qua, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Nguyên đã đẩy mạnh trồng mới, trồng thay thế, cải tạo lại những nương chè già cỗi, năng suất, chất lượng thấp bằng các giống chè mới có năng suất, chất lượng cao phục vụ chế biến chè xanh cao cấp, đặc sản. Bình quân mỗi năm, các địa phương chỉ đạo, hướng dẫn triển khai trồng mới và trồng thay thế trên 500 ha chè, tỷ lệ giống mới đạt 18.376 ha, chiếm 82,7% diện tích chè toàn tỉnh.

Cùng với đó, Sở cũng chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến chè an toàn VietGAP, hữu cơ, nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững… Qua đó, nâng cao giá trị, uy tín, sức cạnh tranh của chè Thái Nguyên trên thị trường, gia tăng giá trị kinh tế cho sản phẩm chè từ 1,5- 2 lần so với trước khi được bảo hộ, góp phần mở rộng thị trường trong và ngoài nước, tăng thu nhập cho người trồng chè, ngăn chặn hàng giả, hàng nhái sản phẩm chè Thái Nguyên.

Giải pháp cho vấn đề

Tiềm năng và lợi thế là vậy song việc phát triển bền vững cây chè, thương hiệu sản phẩm chè của Thái Nguyên còn gặp nhiều khó khăn. Ông Phạm Quốc Chính - Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thái Nguyên – cho biết: Trên địa bàn tỉnh hiện có 1 chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” cho sản phẩm chè đã được công nhận bảo hộ tại EU thông qua Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA); 2 nhãn hiệu chứng nhận là “Chè Phú Lương” và “Chè Võ Nhai”; 9 nhãn hiệu tập thể, gồm: “Chè Thái Nguyên”, “Chè La Bằng”, “Chè Tức Tranh”, “Chè Vô Tranh”, “Chè Trại Cài”, “Chè Đại Từ”, “Chè Phổ Yên”, “PD Phú Đạt GREEN TEA”, “Thanh Tình Hợp tác xã Chè”. Ngoài ra, có 96 nhãn hiệu thông thường của các tổ chức, cá nhân được cấp văn bằng bảo hộ (tính đến hết năm 2022).

Cùng với đó, lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia sản xuất chè giảm; quy mô sản xuất nhỏ, chủ yếu là quy mô hộ, mặc dù đã phát triển thêm nhiều hợp tác xã, nhưng chưa có sự liên kết giữa các hợp tác xã trong sản xuất, tiêu thụ; thị trường nội tiêu là chủ yếu, khối lượng và giá trị xuất khẩu thấp; công tác quản lý chất lượng, truy suất nguồn gốc, quản lý nhãn hiệu, thương hiệu chè Thái Nguyên chưa được quan tâm đúng mức.... Điều này dẫn đến tình trạng một số thương hiệu chè Thái Nguyên bị làm giả, làm nhái trong thời gian vừa qua.

Chia sẻ tại hội thảo đánh giá hệ thống cơ chế chính sách của tỉnh Thái Nguyên về đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phầm chè đã được bảo hộ, do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thái Nguyên tổ chức mới đây, GS.TS Đào Thanh Vân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam – nhận xét: Được mệnh danh là vùng đất “đệ nhất danh trà” nhưng từ năm 2006 tới nay Thái Nguyên mới chỉ có một Chỉ dẫn địa lý Tân Cương và 11 nhãn hiệu tập thể cho cây chè là quá ít, trong khi đó tỉnh có 173 sản phẩm OCOP thì có tới 121 sản phẩm chè được đánh giá, phân hạng từ 3-5 sao.

GS.TS Đào Thanh Vân bày tỏ: Địa phương cần chú trọng hơn nữa cơ chế, chính sách, đầu tư hơn nữa cho sở hữu trí tuệ đối với chè và xem xét đưa các sản phẩm OCOP vào Dự án phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2022- 2030 để hỗ trợ người trồng, chế biến chè. Tỉnh cũng cần xây dựng bộ nhận diện chè Thái Nguyên bằng công nghệ số để độc quyền cấp cho người dân nhằm truy xuất nguồn gốc, xác nhận chính xác sản phẩm khi tiêu thụ trên thị trường, tránh hàng giả, hàng nhái… gây ảnh hưởng tới thương hiệu chè Thái Nguyên, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm chè Thái Nguyên
Thái Nguyên được mệnh danh là vùng đất “đệ nhất danh trà”

Để đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm nói chung và sản phẩm chè Thái Nguyên nói riêng, ông Phạm Quốc Chính cho hay: Thời gian tới, địa phương tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật về thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên địa bàn tỉnh; nghiên cứu cơ chế chính sách riêng cho sản phẩm chè nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất, kinh doanh, xuất khẩu sản phẩm chè của Thái Nguyên.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh phổ biến chính sách của nhà nước về phát triển thương hiệu, tổ chức tập huấn về xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm tại cơ sở giúp các hộ gia đình, làng nghề nhằm tăng cường nâng cao nhận thức về giá trị, để sản phẩm có chỗ đứng, sức cạnh tranh trên thị trường.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt chú trọng công tác kiểm tra nhãn hiệu, kiểm soát chất lượng sản phẩm để phù hợp với chất lượng khi đăng ký bảo hộ đối với tổ chức, cá nhân.

Bản thân các chủ nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể của các sản phẩm tự nâng cao chất lượng sản phẩm, thương hiệu sản phẩm của mình để thương hiệu bay cao, bay xa, có giá trị và đem lại sức cạnh tranh trên thị trường...

Là người trực tiếp sản xuất, chế biến, kinh doanh chè, bà Trần Thị Tuyết - Giám đốc Hợp tác xã chè Tuyết Hương (xã Hóa Trung, huyện Đồng Hỷ) – cho biết: Việc sở hữu trí tuệ và bảo hộ thương hiệu cho sản phẩm chè rất quan trọng đối với hợp tác xã chè. Việc bảo hộ cũng như sở hữu trí tuệ khẳng định chất lượng sản phẩm của hợp tác xã, vùng miền chè riêng có của Thái Nguyên. Tuy nhiên, khi sản phẩm của hợp tác xã có thương hiệu uy tín thì thực tế việc bị xuất hiện hàng giả, hàng nhái trên thị trường cũng đã có.

Để phản ánh thông tin về thực hiện quyền sở hữu trí tuệ, các cá nhân, tổ chức có thể khai thác thông tin trên Cổng Thông tin của Bộ Khoa học và Công nghệ ở Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 tại địa chỉ http://dvctt.noip.gov.vn; hoặc http://www.ipvietnam.gov.vn; https://ipplatform.gov.vn hay trên ứng dụng C-ThaiNguyen.

Thanh Tâm

Theo: Báo Công Thương