Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã góp phần thúc đẩy chuỗi giá trị sản phẩm

(Banker.vn) Ngày 11/4, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tổ chức Diễn đàn “Hợp tác xã Quốc gia năm 2024” với chủ đề “Phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm”.
Thúc đẩy kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển nhanh, bền vững, toàn diện Vụ Liên minh HTX Việt Nam “hợp tác” với Lexus: Quận, phường cùng rút kinh nghiệm Hàng hóa của các hợp tác xã mới chiếm 3% doanh số trong kênh phân phối hiện đại

Tham dự hội nghị có Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái cùng đại diện lãnh đạo Ban Chỉ đạo quốc gia về Kinh tế tập thể; các ban, bộ ngành Trung ương; Thường trực Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; Thủ trưởng các ban, đơn vị của Liên minh hợp tác xã Việt Nam; lãnh đạo Liên minh hợp tác xã 63 tỉnh, thành phố và 100 hợp tác xã tiêu biểu được tôn vinh năm 2024, các Hội, Hiệp hội tổ chức quốc tế, nhà khoa học…

Kinh tế hợp tác xã đã phát huy được hiệu quả

Phát biểu tại diễn đàn, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái nêu rõ: Những năm qua, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, ban hành và triển khai nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách, pháp luật để phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.

Đến nay, cơ sở chính trị, pháp lý để phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã đã tương đối đầy đủ và đã xác định rõ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của thành phần kinh tế tập thể, hợp tác xã đối với phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung và trong cơ cấu nền kinh tế của đất nước. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã tiếp tục có sự tăng trưởng, các hợp tác xã đã cơ bản chuyển đổi sang mô hình kiểu mới, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hoạt động đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực. Đến cuối năm 2023, cả nước đã có trên 31 nghìn hợp tác xã với hơn 5,8 triệu thành viên, 137 liên hiệp hợp tác xã; khoảng 63% hợp tác xã được đánh giá hoạt động hiệu quả.

Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã góp phần thúc đẩy chuỗi giá trị sản phẩm
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái phát biểu tại diễn đàn - Ảnh: VGP

Các sản phẩm của các hợp tác xã ngày càng đa dạng, phong phú, trong đó nhiều sản phẩm có giá trị cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Trong Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), cả nước có trên 5,3 nghìn chủ thể, trong đó có 38,1% là từ các hợp tác xã.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái nêu rõ: Trong phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, việc liên kết theo chuỗi giá trị là mô hình kinh tế đã được khẳng định mang lại nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia.

Trong khi đó, bà Cao Xuân Thu Vân - Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cũng cho rằng, phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm là vấn đề được đề cập nhiều trong thời gian qua không chỉ ở Việt Nam mà còn trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay, cả nước có hơn 31.700 hợp tác xã, 158 liên hiệp hợp tác xã và 73 nghìn tổ hợp tác. Bên cạnh đó, trong hơn 31.000 hợp tác xã, có hơn 20.000 hợp tác xã nông nghiệp, chiếm trên 64% tổng số hợp tác xã cả nước. Trong gần 6 triệu thành viên hợp tác xã có trên 3,8 triệu là nông dân, chiếm trên 63% tổng số thành viên. Nhiều loại hình hợp tác xã liên kết trong sản xuất kinh doanh tạo nên chuỗi liên kết đa giá trị, bền vững.

Vì vậy, chuỗi giá trị có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các hợp tác xã. Và ngược lại, kinh tế tập thể, hợp tác xã cũng là “hơi thở” của chuỗi giá trị đa dạng nhiều ngành hàng ở khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Với xu hướng phát triển kinh tế bền vững, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn như hiện nay, vai trò của kinh tế tập thể, hợp tác xã là yếu tố không thể bỏ ngỏ trong việc tham gia tạo dựng các chuỗi giá trị có tính bền vững.

Bắt kịp xu thế, đến nay, liên kết giữa các thành viên trong tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã với nhau, giữa hợp tác xã với doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác bước đầu đã có sự phát triển. Theo số liệu thống kê của Liên minh hợp tác xã Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước đã có trên 4.000 hợp tác xã tham gia liên kết theo chuỗi giá trị (chiếm gần 13% tổng số hợp tác xã).

Riêng lĩnh vực nông nghiệp đã xây dựng và phát triển được 1.449 chuỗi liên kết đối với các sản phẩm chủ lực theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, với sự tham gia của 2.204 HTX, 1.091 doanh nghiệp, 517 tổ hợp tác và hơn 186 nghìn hộ nông dân. Tổng kinh phí của các dự án, kế hoạch liên kết được duyệt là: 11.440 tỷ đồng, trong đó kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ là: 2.532 tỷ đồng (chiếm 22,1%).

Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã góp phần thúc đẩy chuỗi giá trị sản phẩm
Bà Cao Xuân Thu Vân - Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam phát biểu tại diễn đàn - Ảnh: VGP

Các hình thức liên kết chuỗi giá trị phát triển đa dạng theo các công đoạn trong chuỗi từ cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, tổ chức sản xuất, thu hoạch, sơ chế hoặc chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm và được hình thành trên nhu cầu cụ thể của từng khu vực, từng ngành hàng, từng nhóm chủ thể.

Tại một số địa phương như Thái Nguyên, Hà Nam, Nghệ An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang… đã xuất hiện những mô hình hợp tác xã kiểu mới điển hình tiên tiến, hoạt động hiệu quả, mang lại thu nhập ổn định cho các thành viên và đóng vai trò quan trọng trong chuỗi liên kết phát triển vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn phục vụ chế biến, xuất khẩu.

Việc phát triển các chuỗi liên kết phù hợp đã góp phần hình thành nhiều khu sản xuất tập trung, vùng nguyên liệu lớn, là cơ sở quan trọng để ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nâng cao chất lượng, sản lượng hàng hóa, đáp ứng yêu cầu của thị trường, khắc phục được những nhược điểm của mô hình kinh tế hộ nhỏ, lẻ, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao cho nhiều đối tác tham gia liên kết.

Còn nhiều tồn tại, “kìm hãm” sự phát triển của kinh tế tập thể

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại đã được đề cập nhiều trong thời gian qua như: Năng lực sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã còn yếu, manh mún (doanh thu bình quân của các hợp tác xã năm 2023 chỉ đạt đạt 3,5 tỷ đồng/hợp tác xã/năm. Lãi bình quân một hợp tác xã năm 2023 đạt 324 triệu đồng).

Trình độ về khoa học công nghệ còn hạn chế, ứng dụng chuyển đổi số trong công tác quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn. Số hợp tác xã xây dựng được thương hiệu sản phẩm chưa nhiều, giá trị cạnh tranh trên thị trường chưa cao.

Bên cạnh đó, tính liên kết trong nội bộ hợp tác xã còn yếu, các hoạt động liên doanh, liên kết giữa các hợp tác xã và giữa hợp tác xã với các tổ chức kinh tế khác chưa phổ biến. Chưa có nhiều hợp tác xã có năng lực tổ chức liên kết, phát huy vai trò cầu nối thật sự hiệu quả, có khả năng lan tỏa trong phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị.

Theo Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, những tồn tại nói trên xuất phát từ một số nguyên nhân, như: Chất lượng nguồn nhân lực quản lý của các hợp tác xã nhìn chung còn nhiều hạn chế (đến năm 2023, số cán bộ quản lý hợp tác xã đạt trình độ sơ, trung cấp mới chiếm gần 36%, trình độ cao đẳng, đại học chỉ chiếm 23%). Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã đã có, tuy nhiên, việc tổ chức triển khai thực hiện còn chưa đồng bộ, thiếu nguồn lực bảo đảm thực hiện.

Các hợp tác xã còn khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng do không có tài sản thế chấp, hoạt động sản xuất kinh doanh chưa hiệu quả, thiếu tính bền vững, chưa thể hiện đủ minh bạch trong hoạt động tài chính, kế toán để đáp ứng yêu cầu các tổ chức tín dụng.

Trong triển khai thực hiện các chính sách về liên kết chuỗi giá trị, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định phân cấp cho các tỉnh trong việc ban hành cơ chế, chính sách để cụ thể hóa các cơ chế, chính sách khuyến khích liên kết trên địa bàn, phù hợp với nguồn lực và tình hình thực tế của địa phương. Tuy nhiên, còn có những địa phương chậm ban hành, trông chờ, kiến nghị ngược trở lại Chính phủ và các Bộ, ngành về cụ thể hóa chính sách.

Điều kiện thụ hưởng chính sách liên kết còn khó khăn, quy trình, thủ tục hướng dẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng, phức tạp, nên chưa thu hút được nhiều hợp tác xã và doanh nghiệp tham gia.

Công tác tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách về phát triển liên kết sản xuất với tiêu thụ nông sản tới các cơ sở (xã, phường, cộng đồng dân cư) còn hạn chế dẫn đến nhận thức của các bên liên quan không đầy đủ và thiếu sự tin tưởng tham gia vào chuỗi liên kết.

Một số vùng nguyên liệu đã được hình thành nhưng chưa được tổ chức và quản trị hiệu quả, bền vững, hạ tầng phục vụ sản xuất và kinh doanh yếu kém, thiếu cơ sở thông tin dữ liệu sản xuất để thực hiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm, xây dựng mã số vùng trồng, khó khăn trong thực hiện đồng bộ các chính sách hỗ trợ về tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, quản lý chất lượng vùng nguyên liệu gắn với liên kết theo chuỗi giá trị, xây dựng thương hiệu sản phẩm.

Các chính sách hỗ trợ liên kết chuỗi giá trị có chủ thể là các tổ chức kinh tế tập thể hiện chủ yếu tập trung đối với lĩnh vực nông nghiệp. Thiếu các nghiên cứu, đánh giá đối với chuỗi liên kết có chủ thể tham gia là các tổ chức kinh tế tập thể trong lĩnh vực phi nông nghiệp…

Không giữ được chữ tín thì không thể liên kết thành công!

Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái nêu rõ: Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới đã xác định mục tiêu "đến năm 2030 cả nước có khoảng 140 nghìn tổ hợp tác, 45 nghìn hợp tác xã, 340 liên hiệp hợp tác xã, ít nhất 50% tổ chức kinh tế tập thể tham gia liên kết theo chuỗi giá trị; phát triển các chuỗi giá trị nông sản hàng hóa gắn với liên kết sản xuất, cung cấp dịch vụ chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; đẩy mạnh tham gia vào các chuỗi cung ứng đưa sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài; đến năm 2045 có ít nhất 75% tổ chức kinh tế tập thể tham gia liên kết theo chuỗi giá trị".

Luật Hợp tác xã năm 2023 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024 đã thể chế hóa đầy đủ 8 nhóm chính sách theo Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, trong đó có chính sách hỗ trợ phát triển chuỗi giá trị.

Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 02/02/2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW khóa XIII với 48 đề án, nhiệm vụ chủ yếu đã xác định rõ cơ quan chủ trì, sản phẩm hoàn thành và lộ trình triển khai nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, trong đó có nhiều nhiệm vụ nhằm phát triển bền vững liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị.

Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã góp phần thúc đẩy chuỗi giá trị sản phẩm
Tại diễn đàn cũng đã diễn ra Lễ ký kết Chương trình phối hợp, thỏa thuận hợp tác giữa Liên minh HTX Việt Nam và Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, NHCSXH, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam - Ảnh: Internet

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đề nghị các bộ, ngành, cơ quan, địa phương, các tổ chức kinh tế hợp tác, các đối tác tham gia liên kết cần quán triệt, bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, các quy định của Luật HTX năm 2013 và các chính sách, pháp luật liên quan, tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo để tiếp tục phát triển, nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã trong thời gian tới.

Về liên kết phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm, Phó Thủ tướng đề nghị tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ sau:

Một là, rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc, thúc đẩy liên kết, phát triển bền vững chuỗi giá trị sản phẩm.

Các bộ ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao "phải làm rõ vướng ở cơ chế nào, quy định nào, trách nhiệm thuộc về ai, để có đề xuất cụ thể", Phó Thủ tướng Lê Minh Khái nhấn mạnh.

Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế tập thể, HTX.

Ba là, tổ chức củng cố, xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố liên quan phối hợp chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Đề án "Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; các đề án xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt; đầu tư phát triển hoàn thiện hạ tầng phục vụ sản xuất; tạo nền tảng, cơ sở thu hút các doanh nghiệp liên kết, đầu tư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, phát triển bền vững vùng nguyên liệu và chuỗi giá trị sản phẩm.

Bốn là, đẩy mạnh công tác truyền thông, phổ biến chính sách.

Năm là, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tổng hợp, cân đối các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để thực hiện các chính sách hỗ trợ khu vực kinh tế tập thể, hơp tác xã, liên kết chuỗi giá trị, đảm bảo yêu cầu tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với tình hình thực hiện từng giai đoạn.

Sáu là, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tập trung chỉ đạo, triển khai các cơ chế chính sách, tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện cho phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã tại địa phương. Chủ động bố trí, lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình, dự án liên quan để thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị đạt hiệu quả cao.

"Làm tốt việc này không chỉ góp phần phát triển kinh tế địa phương và còn góp phần nâng cao đời sống người dân, giải quyết công ăn việc làm, bảo đảm an sinh xã hội", Phó Thủ tướng nêu rõ.

Bẩy là, các hợp tác xã, các doanh nghiệp với vai trò là cầu nối, chủ thể dẫn dắt của chuỗi liên kết phải chủ động tăng cường năng lực quản lý, điều hành, thích ứng bối cảnh, xu hướng phát triển mới, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, liên kết theo hướng công khai, minh bạch, nhận thức rõ và thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia chuỗi liên kết; trao đổi, thương lượng và thống nhất giải quyết, chia sẻ những khó khăn và rủi ro bất khả kháng trong quá trình thực hiện hợp đồng liên kết.

"Quan trọng nhất là phải công khai, minh bạch, tự nguyện, thống nhất, giữ uy tín giữa các bên. Không giữ được chữ tín thì không thể liên kết thành công!", Phó Thủ tướng nêu rõ.

Tám là, Phó Thủ tướng đề nghị các tổ chức chính trị xã hội và các hội, hiệp hội ngành hàng tăng cường thông tin, tuyên truyền, tư vấn, vận động và hỗ trợ các thành viên, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia và thực hiện đúng hợp đồng liên kết; phát triển thị trường, xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm; xây dựng, phát triển và bảo vệ uy tín của chuỗi liên kết.

Chín là, hệ thống liên minh hợp tác xã tiếp tục phát huy tốt vai trò là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với khu vực kinh tế tập thể. Bám sát tình hình, nắm rõ những khó khăn, nhu cầu của hợp tác xã, tổ chức tư vấn, hướng dẫn các hợp tác xã nhằm tăng khả năng tiếp cận các chính sách hỗ trợ của nhà nước, tham gia hiệu quả trong chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ sản phẩm.

Mười là, chủ động tham khảo, học tập kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể, hợp tác của các nước tiên tiến áp dụng phù hợp với thực tế đất nước, địa phương.

Phó Thủ tướng Lê Minh Khái nhấn mạnh: Chính phủ luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi theo quy định của pháp luật để khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển nhanh, bền vững, đóng góp ngày càng tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.

Đối với các kiến nghị tại diễn đàn, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đề nghị Liên minh hợp tác xã tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành xử lý theo thẩm quyền.

Nhóm PV

Theo: Báo Công Thương